Skip to main content
alt

Lan man những kỷ niệm về Khoa KTCN

Mấy ngày nay thấy các thầy cô và các sinh viên khoa mình tất bật chuẩn bị cho ngày hội khoa, tự nhiên lại muốn viết một chút gì đó. Không biết mình với khoa có duyên nợ gì không mà sau 2 lần xin bỏ khoa để về không thành, không thể nghĩ được rằng mình lại quay trở về khoa tiếp tục học Cao Học. Mà hình như lớp nào mình học cũng thật nhiều chuyện rắc rối, vui nhiều nhưng buồn cũng không ít. Có lẽ vậy nên thật nhiều kỉ niệm. 

Ngày đó chúng mình thường hay nói với nhau:” Chúng ta sinh ra nhầm thế kỉ”. Không phải bây giờ giáo dục mình mới liên tục thay đổi, mà từ thời chúng mình giáo dục cũng thay đổi liên tục. Lứa chúng mình là khóa đầu tiên của Miền Bắc dù vẫn học theo hệ 10 năm nhưng hết lớp 7 không vào lớp 8 mà vào lớp 10, là khóa đầu tiên môn ngoại ngữ được đưa vào thi tốt nghiệp. Mà hậu quả với lớp chuyên toán của chúng mình là có bạn học khá tốt các môn tự nhiên nhưng đã trượt tốt nghiệp vì môn ngoại ngữ. Khóa chúng mình là năm đầu tiên có thi khối D và cũng là năm chính sách thi đại học khắt khe nhất: Thi chung 1 đề, chỉ được duy nhất một nguyện vọng, không được vào cao đẳng hoặc trung cấp nếu trượt đại học, không được thi lại năm thứ 3. Cũng vì lí do này mà lớp đại học của mình có một anh người Thái Bình dù là con liệt sĩ, sau khi học hết một kì mới bị phát hiện ra là thi đại học lần thứ 3 và bị đuổi về. Không biết bây giờ anh thế nào rồi, biết đâu đó lại là một may mắn với anh? Và một điều đến giờ mình mới càng thấy là chúng mình bị mất quyền … ghê gớm. 

Đó là chúng mình được chọn vào trường nhưng không được chọn ngành mà mình yêu thích, việc học khoa nào là do trường phân công dựa theo nhu cầu của tỉnh, nhưng khi phân công công tác thì nhiều bạn lại không được về tỉnh… Có lẽ vậy mà ngày nhập học của các tân sinh viên khoa KTCN không phải là nụ cười mà hầu như là nước mắt. Ngày đó nhiều bạn trong chúng mình còn không có khái niệm gì về khoa KTCN vì nhiều trường phổ thông ngày đó không có môn học này. Để đả thông tư tưởng cho chúng mình, trường cho thầy Dư là giáo viên văn làm ở phòng công tác chính trị xuống nói chuyện với sinh viên năm nhất. Lúc đó thầy thường sang dạy văn cho sinh viên trường Văn công quân đội nên hôm nào bên đó có biểu diễn báo cáo hoặc tổng duyệt các vở kịch mới thầy thường đưa bọn mình sang xem. Cũng từ đây mà có mối tình sâu sắc của hoa khôi lớp mình với anh sinh viên sân khấu điện ảnh. 

Vì ít sinh viên nên các thầy cô trong khoa coi chúng mình như con em trong nhà. Con gái chúng mình còn đỡ, các bạn nam thì thực sự là phải đánh vật với cái đói khi thau cơm tập thể được một chút cơm độn, canh rau “ toàn quốc”, vài miếng thịt mỡ nổi lềnh phềnh trong bát nước hàng nhạt toẹt. Mình ở nhà khá được chiều chuộng vì là con áp út, các anh chị lại lớn hơn hẳn nên khó ăn và không biết ăn nhiều món. Sợ nhất là hôm nào có canh cải xoong và bí ngô, những hôm đó thì hầu như mình chịu nhịn đói. Có hôm bạn trong lớp ốm, nửa đêm phải mang xuống cấp cứu ở trạm xá. Tối vậy mà các bạn nam vẫn kịp nhìn thấy buồng chuối xanh ở vườn trạm xá, thế là các bạn tranh thủ bẻ vài nải về chấm mắm tôm, qua được cơn đói và chắc là lúc đó cũng thấy ngon tuyệt nên về sau mỗi lần gặp nhau món chuối xanh chấm mắm tôm vẫn hay được nhắc đến. Thương chúng mình nên cô Thanh ngày đó làm tổ chức khoa mỗi lần đi chợ về qua sân khoa thấy chúng mình đang học trong xưởng hay chơi bóng chuyền thường hay gọi ra cho lúc tấm mía, khi quả cam. Thầy Hoàng Việt có cái túi vải hay treo lủng lẳng ở ghi đông xe đạp lúc thì hồng xiêm, lúc thì nhót mang đến cho chúng mình. Ngày đó sao thấy những trái nhót và hồng xiêm nhà thầy ngon đến thế. Chả đến nhà thầy bao giờ nhưng chúng mình ăn đến thuộc quả này ở cây nào qua lời kể của thầy. Khóa chúng mình và các khóa trên vài năm có lẽ là khóa học vất vả nhất của khoa mình trong suốt 45 năm. 

Chúng mình được đào tạo theo mô hình vừa có thể dạy được môn Vật lý, vừa dạy môn KTCN nên sáng chúng mình phải học lý thuyết chung với khoa Lý, còn chiều thì xuống xưởng. Học chung với khoa Lý, phòng thì chật, lớp thì đông, chúng mình như người học ké, toàn phải ngồi cánh gà, nghe thì bập bõm.Các thầy cô khoa Lý được mệnh danh là “ dũng sĩ diệt sinh viên”. Có khóa, sau 2 năm học số sinh viên chỉ còn lại một nửa nên sau khóa chúng mình, các môn chung với khoa Lý mới được đưa về cho các thầy cô khoa mình dạy. 

Với sinh viên năm thứ nhất chúng mình, vất vả và bỡ ngỡ nhất là việc thực hành dưới xưởng. Sợ nhất có lẽ là học gò thầy Nghĩa, thầy già, tay nghề cao lại rất nghiêm khắc, chúng mình rất sợ thầy. Mình vốn vụng về lại không quen việc nặng, gò cái ca không thể nào gõ búa cho đều nên cái miệng ca cứ loe ra. Đến khi phải gò cái xô, tôn thì cứng, kéo thì to, triển khai được cái hình xong đã khó, cầm kéo cắt tôn mà mình loay hoay thế nào để miếng tôn cứa vào tay chảy máu be bét. Lúc thầy vội vàng băng cho mình, mình mới cảm nhận được thầy cũng thương trò chứ không phải quá khe khắt như bọn mình tưởng. Giờ vết sẹo trên tay vẫn làm cho mình nhớ đến những ngày gian nan nhưng đầy tình cảm đó. Những giờ học rèn cũng vất vả không kém, trời thì nắng nóng, gian nhà cấp bốn lúc nào cũng rực lửa, búa tạ thì to, con gái chúng mình quai búa được vài nhát đã rát cả tay. May là ngày đó các bạn trai trong lớp cũng tích cực giúp đỡ, đặc biệt là cùng nhóm với mình có 2 anh sinh viên Lào lớn tuổi hơn mình nhiều và to khỏe nên thường tranh thủ làm giúp mình những lúc vắng thầy. Cứ mải chuyện một chút là chúng mình để thép cháy, nhoằng một cái là đoạn thép được nung để rèn búa được phi tang qua cửa sổ không thầy biết là ăn mắng. 

Hi, vì thầy Thảo dạy rèn rất ham bóng chuyền nên thầy hay cho sinh viên tự làm để ra huấn luyện đội tuyển của khoa và chơi bóng. Về sau chúng mình cũng lây món bóng chuyền của thầy, cứ chiều mát là tụ tập ở sân khoa để chơi bóng chuyền, ham chơi đến mức chiều về cầm bát cơm mà tay còn run vì mỏi và đói. Nhưng những năm đó phong trào văn nghệ, thể thao của khoa mình toàn dẫn đầu trường. Nhất là đội bóng chuyền nữ, chúng mình gần như đấu trận nào thắng trận đó, có lần thi đấu với khoa văn, chúng mình chỉ phát bóng mà ghi bàn tuyệt đối. Tối về bạn Thanh Trầm ở trong đội của khoa văn cứ chạy theo mình chỉ để bảo:” Lần sau các chị phát bóng nhè nhẹ thôi để bọn em còn học”. Có lẽ từ việc đó mà thầy Khanh có câu nói để đời cho nữ sinh của khoa. “May mà lấy được chồng chứ con gái khoa KTCN vắt mũi cho con thì dập lá mía”. Nhưng sân khoa ngày đó cũng là nơi mà tình bạn, tình thấy trò gần gũi và thân thiết nhất. Đến năm thứ 2, thứ 3 thì việc thực hành cũng quen dần hơn với chúng mình. 

Khi chúng mình vào năm thứ 2 thì thầy Khổng Đình Hổng nghỉ hưu, thầy Phan Văn Ánh lên làm chủ nhiệm khoa. Một cuộc cải cách lại bắt đầu mà nhớ nhất là vụ cả lớp mình bị kỉ luật vì không lao động mà thuê người làm. Nhưng chính mình lại không nhớ được vì sao ngày đó mình là một trong số 5, 6 bạn không bị kỉ luật. Thôi, đến đây thì nhường lời cho Phan Minh Trí. Chỉ biết rằng đến giờ thì chúng mình vẫn thấy việc làm của lớp trưởng Trí lúc đó là đúng, sáng suốt và hợp tình, hợp lý. 

Nguyễn Thị Phương Hoa, cựu sinh viên khóa K34 (1984-1988)

 

Liên hệ

Khoa Sư phạm Kỹ thuật là đơn vị đầu ngành đào tạo giáo viên Sư phạm Công nghệ trên cả nước. Tới năm 2024, Khoa là đơn vị đầu tiên và duy nhất trên cả nước có CTĐT Sư phạm Công nghệ được kiểm định và đạt chuẩn kiểm định.

  • Địa chỉ: 136, Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội
  • Điện thoại: 024.3754.4994 | 0916.524.425
  • k.spkt@hnue.edu.vn

Về chúng tôi

Khoa Sư phạm Kỹ thuật, với truyền thống 53 năm hình thành và phát triển, là cơ sở đầu ngành đào tạo giáo viên Công nghệ - giáo dục STEM, đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn Kĩ thuật Công nghiệp. Khoa là đối tác tin cậy với các trường phổ thông trong việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm kỹ thuật, trải nghiệm STEM, bồi dưỡng chuyên môn Công nghệ và STEM cho giáo viên phổ thông.